Phản ứng của Đồng Minh Xe_tăng_Tiger_I

Ở mặt trận phía Tây

Một chiếc Tiger bị bắt tại Tunis, 1943.

Quân đội Mỹ ít có chuẩn bị để chiến đấu chống lại Tiger dù họ có đánh giá rằng loại xe tăng mới được đưa vào tham chiến của Đức vượt trội hơn tăng của họ. Kết luận này một phần dựa trên ước tính chính xác rằng Tiger có thể chỉ được đưa ra với số lượng khá nhỏ.[21] Ở thời điểm sau này trong cuộc chiến, Tiger có thể bị bắn xuyên ở cự ly ngắn bởi các xe tăng và pháo chống tăng được trang bị súng M1 76 mm bắn đạn HVAP,[22] ở tầm xa với súng M2/M3 90mm AA/AT bắn HVAP, và bởi pháo chống tăng M36M26 Pershing ở cuối cuộc chiến.[23]

Trái lại, người Anh với nhiều kinh nghiệm hơn đã quan sát thấy sự ngày càng gia tăng trong vỏ giáp và hoả lực của tăng Đức từ năm 1940 và đã lường trước nhu cầu với những loại súng chống tăng lớn hơn. Công việc phát triển Ordnance QF 17 pounder đã bắt đầu hồi cuối năm 1940 và tới năm 1942 100 súng sản xuất đầu tiên được gửi tới Bắc Phi để giúp chống lại mối đe doạ mới từ Tiger. Điều đáng ngạc nhiên là chúng được vội vàng gửi tới trước khi các giá đỡ thích hợp được phát triển, và các súng phải được lắp trên các giá đỡ của lựu pháo 25-pounder.

Những nỗ lực đã được thực hiện nhằm đưa các Cruiser tank được trang bị súng 17 pounder vào hoạt động. Loại A30 Challenger đã sẵn sàng ở giai đoạn nguyên mẫu năm 1942,[24] nhưng loại tăng này được bảo vệ kém[25] và không đáng tin cậy, và chỉ được đưa ra với số lượng hạn chế (khoảng 200 chiếc được chế tạo), dù các kíp lái ưa thích nó vì tốc độ. Chiếc Sherman trang bị súng 17, loại Sherman Firefly, là một thành công đáng chú ý dù nó chỉ được coi là một thiết kế tạm thời. Những chiếc Firefly đã có những thành công trong đối đầu với Tiger (trong một trận nổi tiếng, chỉ một chiếc Firefly duy nhất đã tiêu diệt 3 chiếc Tiger trong 12 phút với năm phát bắn[26]) và hơn 2,000 chiếc đã được chế tạo trong chiến tranh. Năm loại xe tăng khác nhau được trang bị súng 17-pounder của Anh và súng tự phóng đã tham chiến trong chiến tranh: chiếc A30 Challenger, chiếc A34 Comet, chiếc Sherman Firefly, chiếc 17pdr SP Achilles17pdr SP Archer.

Quân đội New Zealand chiến đấu ở Florence đương đầu với những chiếc Tiger theo nhiều cách, gồm cả che mắt kíp lái Tiger bằng khói, bắn chặn bằng pháo hạng trung HE và bằng cách sử dụng các đội chống tăng chuyên nghiệp.[27]

Ở mặt trận phía Đông

Cách phản ứng ban đầu của Liên Xô là khởi động lại việc sản xuất súng chống tăng 57 mm ZiS-2 (việc sản xuất loại súng này đã dừng năm 1941 để nhường chỗ cho những kiểu nhỏ hơn và rẻ hơn). ZiS-2 có khả năng xuyên giáp tốt hơn súng chống tăng F-34 76 mm (được dùng trên hầu hết xe tăng Hồng quân, nhưng không đủ mạnh để chống lại) - với những viên đạn APCR, nó có thể xuyên dễ dàng vào lớp giáp trước của Tiger[28]. Một số lượng nhỏ T-34 đã được trang bị một phiên bản trên xe tăng của ZiS-2 nhưng nó không thể bắn đạn có sức công phá đủ mạnh, cuối cùng biến nó thành một loại pháo tăng không thích hợp. Thay vào đó, súng phòng không 85 mm 52-K đã được sửa đổi để sử dụng trên xe tăng. Ban đầu nó được dùng trên pháo tự hành SU-85 (dựa trên một khung gầm T-34) từ tháng 8 năm 1943, loại pháo này có thể bắn thủng giáp trước của Tiger I từ cự ly 500 - 1.000 mét. Tới mùa xuân năm 1944, chiếc T-34-85 xuất hiện; chiếc T-34 có pháo nâng cấp này có hoả lực tương đương SU-85, nhưng với ưu thế là pháo được lắp đặt trên tháp pháo nên linh động hơn. Loại SU-85 bị lạc hậu và được thay thế bởi SU-100, lắp một pháo tăng D-10 100 mm, có thể xuyên thấu tấm giáp đứng 185 mm ở khoảng cách 1.000 m, và vì thế có thể dễ dàng xuyên qua lớp giáp trước của Tiger ở khoảng cách tới 2.000 mét.

Pháo tự hành ISU-152 được mệnh danh là "Kẻ giết thú" nhờ khả năng tiêu diệt xe tăng Tiger chỉ với 1 phát bắn trúng đích

Tháng 5 năm 1943, Hồng quân triển khai SU-152, và sau đó được thay thế bằng ISU-152 năm 1944. Các pháo tự hành này sử dụng loại lựu pháo 152 mm được đặt trên thân xe KV-1. SU-152 được dự định trở thành một loại pháo hỗ trợ tầm gần chống lại các pháo đài của Đức hơn là đương đầu với xe tăng địch, nhưng cả nó và loại ISU-152 sau này đều cho thấy rất hữu hiệu trong việc chống trả các xe tăng hạng nặng của Đức, và được đặt biệt hiệu Zveroboy (thường được dịch là "Kẻ săn thú") vì điều đó. Loại đạn xuyên giáp 152 mm nặng hơn 45 kg của SU-152 có thể xuyên thủng lớp giáp trước của Tiger từ khoảng cách 1.000m. Những viên đạn nổ phá (HE) nặng 48 kg có sức phá hủy cực mạnh của SU-152 thì có thể làm vỡ nát vỏ giáp và giết chết kíp lái của một chiếc Tiger chỉ bằng 1 phát trúng đích, bất kể cự ly bắn là bao xa. Tuy nhiên, kích cỡ và trọng lượng của đạn đồng nghĩa với việc cả hai loại xe đều có tốc độ bắn thấp và mỗi xe chỉ có thể mang theo 20 viên đạn.

Xe tăng hạng nặng IS-2 được thiết kế để hạ gục Tiger

Tháng 2 năm 1944 ở chiến dịch Korsun-Shevchenko, Ukraine, Liên Xô tung ra loại xe tăng hạng nặng IS-2 có lớp giáp mặt trước dày tới 200mm và trang bị pháo 122mm rất mạnh. So với Tiger I, IS-2 vượt trội hơn hẳn cả về vỏ giáp và hỏa lực, sự xuất hiện của IS-2 khiến Tiger I không còn ưu thế nữa. Trong 1 trận đấu tăng nổi tiếng, Anh hùng Liên Xô là Ivan Ivanovich Khítenko đã điều khiển 1 chiếc IS-2 hạ 5 chiếc Tiger trước khi tử trận.

Theo tài liệu Đức, cự ly mà Tiger I có thể bắn xuyên giáp trước của IS-2 chỉ khoảng 300 mét, trong khi pháo 122mm của IS-2 có thể bắn thủng giáp trước của Tiger I từ cự ly 1.500 mét, như vậy nếu đấu trực diện từ cự ly xa thì Tiger I không có cơ hội chiến thắng khi gặp IS-2. Vị tướng xe tăng Heinz Guderian của Đức đã từng kiểm tra một chiếc IS-2 hư hại bị quân Đức bắt được. Sau khi kiểm tra vỏ giáp và hỏa lực của IS-2, Guderian kết luận rằng "xe tăng Stalin" có sức mạnh vượt trội so với Tiger I. Ông viết: "Đừng tham gia vào một trận đánh với xe tăng Stalin nếu không có ưu thế áp đảo về số lượng. Tôi tin rằng để hạ mỗi chiếc IS, chúng ta phải huy động toàn bộ một trung đội Tiger (gồm 3 chiếc). Bất kỳ một nỗ lực nào nhằm đem Tiger đánh một-chọi-một với IS chỉ có thể dẫn đến sự mất mát một cỗ máy chiến tranh quý giá của Đức". Ngay sau đó, các quy tắc chiến thuật mới đã được đưa ra cho lính tăng Đức: tránh đối đầu trực diện với IS-2 mà phải tìm cách phục kích và khai hỏa bất ngờ, khi bắn phải luôn tìm cách nhắm vào sườn và hông của IS-2 (nơi có vỏ giáp mỏng hơn), và chỉ nên bắn ở cự ly gần.